Hội đồng bộ môn ngữ văn, Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) vừa họp, thống nhất định hướng ôn tập cho học sinh thi tuyển sinh vào lớp 10 môn ngữ văn.
Theo
đó, về cấu trúc đề thi không thay đổi. Đề thi sẽ có thời gian làm bài
120 phút gồm 3 phần: Đọc hiểu (3 điểm), nghị luận xã hội (3 điểm) và
nghị luận văn học (4 điểm).
Song, hội đồng đã điều chỉnh định
hướng ôn tập ở đề 1 - câu nghị luận văn học. Cụ thể, phần viết bài văn
nghị luận văn học, học sinh được lựa chọn 1 trong 2 đề để làm bài.
Đề
1 yêu cầu học sinh phân tích, cảm nhận 1 tác phẩm hoặc đoạn trích tác
phẩm cụ thể có trong sách giáo khoa. Từ đó chỉ ra ảnh hưởng, tác động
của tác phẩm đối với bản thân mình hoặc liên hệ đến tác phẩm khác, liên
hệ thực tế cuộc sống để rút ra một vấn đề văn học hoặc cuộc sống.
Đề
2 đặt ra một tình huống cụ thể và yêu cầu học sinh sử dụng kiến thức,
sự trải nghiệm trong quá trình đọc (tự chọn tác phẩm/đoạn trích) để giải
quyết tình huống ấy.
Học sinh cần nắm vững kỹ năng viết bài văn
nghị luận văn học; Rèn luyện kỹ năng phân tích, cảm nhận tác phẩm văn
học theo thể loại thơ, truyện; Đọc thêm các tác phẩm ngoài sách giáo
khoa cùng thể loại và chủ đề với tác phẩm trong sách giáo khoa.
Học sinh cần dùng kiến thức và trải nghiệm đọc tác phẩm để giải quyết một tình huống cụ thể.
Theo
hội đồng, hạn chế của học sinh thường gặp phải ở việc diễn xuôi lại tác
phẩm; bài làm thiếu cảm xúc do ít đọc, ít suy tư, cũng có thể do học
vẹt; Không hiểu rõ yêu cầu của đề, viết lại các nội dung đã học một cách
máy móc.
Ngoài ra, một số nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng đến bài
làm của các em như phân bố thời gian không hợp lý cho các phần, các
câu; đọc đề không kỹ dẫn đến trả lời không đúng trọng tâm, hoặc trả lời
dài dòng, thừa ý.
Học sinh còn trình bày, viết chữ cẩu thả, khó
đọc; bài làm không hoàn chỉnh do quá say sưa viết về 1 ý dẫn đến quên
kết bài hoặc kết bài quá sơ sài. Mặt khác, cũng có em quá lo lắng, căng
thẳng dẫn đến ảnh hưởng đến bài làm.
Về năng lực đọc hiểu, các văn
bản được chọn có thể là văn bản nghị luận, văn bản thông tin, văn bản
văn học, văn bản khoa học,... Câu hỏi được tổ chức theo các mức độ tư
duy từ dễ đến khó, từ mức độ nhận biết, thông hiểu đến phân tích, suy
luận và đánh giá, vận dụng. Trong các câu hỏi đọc hiểu có 1 câu hỏi về
tiếng Việt.
Hội đồng gợi ý học sinh có thể lựa chọn các văn bản
(báo chí, các bài bình luận, các sách khoa học, …) có nội dung phù hợp
với lứa tuổi, gắn với tình hình thời sự,… để luyện tập các kỹ năng đọc
hiểu về phát hiện, nhận diện, giải mã từ ngữ, chi tiết, hình ảnh; tìm
các vấn đề tiếng Việt có trong văn bản.
Một số kỹ năng khác như:
Tập tóm tắt văn bản; nối kết văn bản đang đọc với văn bản khác liên
quan, nối kết với thực tế cuộc sống, đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề
đặt ra trong văn bản; sáng tạo cách thể hiện khác, đề xuất giải pháp,
đặt nhan đề mới, …
Khi trả lời các câu hỏi đọc hiểu, các em cần
đọc toàn bộ văn bản để nắm nội dung, trả lời ngắn gọn, rõ ràng theo đúng
yêu cầu của đề. Các giáo viên lưu ý học sinh tránh lan man, dài dòng
không cần thiết.
Bài nghị luận xã hội sẽ có độ dài khoảng 500 chữ.
Người làm bài cần đảm bảo cấu trúc bài nghị luận có đủ các phần mở bài,
thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn
đề, kết bài kết luận được vấn đề.
Học sinh cần tập phân tích, xác
định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các
luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa
lý lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động.
Cùng
với đó, rèn luyện các thao tác lập luận, đặc biệt là thao tác lập luận
giải thích, chứng minh, bình luận cũng được chú trọng.
Các giáo
viên lưu ý học sinh cần tránh lỗi thiếu thao tác lập luận, ví dụ thiếu
giải thích về vấn đề bàn luận; vận dụng các thao tác lập luận chưa hiệu
quả, dẫn chứng chưa sát với vấn đề, thiếu phân tích dẫn chứng để làm rõ
vấn đề,…
Một hạn chế khác học sinh thường mắc phải là chưa rút ra
được bài học cho bản thân thông qua việc bàn luận về vấn đề, các ý bàn
luận chưa phong phú, chưa sâu sắc, còn sơ sài.